Soạn bài Chơi chữ Ngữ văn 7 đầy đủ

Nội dung bài soạn dưới đây nhằm giúp các em hiểu hơn về thủ pháp nghệ thuật chơi chữ. Từ đó, các em có thể nhận diện và phân tích thủ pháp nghệ thuật này trong một số văn bản cụ thể. Mời các em cùng tham khảo nhé!

Soạn bài Chơi chữ Ngữ văn 7 đầy đủ

1. Soạn câu 1 trang 163 SGK Ngữ văn 7 đầy đủ

"Bà già đi chợ Cầu Đông,

Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?

Thầy bói xem quẻ nói rằng:

Lợi thì có lợi nhưng răng không còn".

Nhận xét cách chơi chữ trong bài ca dao trên:

- Bài ca dao đã kể về một bà già đi xem bói: muốn lấy chồng có lợi không, câu trả lời của thầy bói đã tạo nên tình huống chơi chữ độc đáo.

- Từ "lợi" được hiểu như sau:

+ Từ lợi mà bà già dùng (lợi chăng) nghĩa là lợi ích, thuận lợi.

+ Từ lợi trong câu nói của thầy bói nghĩa là phần thịt bao quanh chân răng.

- Việc sử dụng từ lợi ở câu cuối của bài ca dao dựa vào hiện tượng đồng âm khác nghĩa của từ ngữ.

- Tác dụng:

+ Thầy bói nhắc khéo "bà già": bà đã già quá rồi (răng không còn) thì lấy chồng làm gì nữa -> sự bất ngờ, thú vị, dí dỏm.

+ Cách vận dụng như thế gây cảm giác bất ngờ thú vị. Câu trả lời của thầy bói tuy đượm chút hài hước nhưng không cay độc.

2. Soạn câu 2 trang 164 SGK Ngữ văn 7 đầy đủ

Liệt kê lối chơi chữ trong những câu thơ sau:

(1) Sánh với Na-va “ranh tướng” Pháp

Tiếng tăm nồng nặc ở Đông Dương.

(Tú Mỡ)

-> Dựa vào hiện tượng gần âm: ranh tướng gần với danh tướng nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau. Danh tướng và vị tướng giỏi được lưu danh; còn ranh tướng là kẻ ranh ma - ý mỉa mai, chế giễu.

(2) Mênh mông muôn mẫu một màu mưa

Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ.

(Tú Mỡ)

-> Mượn cách nói điệp âm: hai câu thơ điệp âm "m" tới 14 lần. Diễn tả sự mịt mờ của không gian đầy mưa.

(3) Con cá đối bỏ trong cối đá,

Con mèo cái nằm trên mái kèo,

Trách cha mẹ em nghèo, anh nỡ phụ duyên em.

(Ca dao)

-> Nói lái: Cá đối nói lái thành cối đá - Mèo cái nói lái thành mái kèo, nhằm diễn tả sự trái khoáy, sự hẩm hiu của duyên phận.

(4) Ngọt thơm sau lớp vỏ gai,

Quả ngon lớn mãi cho ai đẹp lòng.

Mời cô mời bác ăn cùng,

Sầu riêng mà hóa vui chung trăm nhà.

(Phạm Hổ)

-> Dựa vào hiện tượng trái nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa: Sầu riêng là danh từ - chỉ một loại trái cây ở Nam Bộ. Sầu riêng là tính từ - chỉ sự phiền muộn riêng từ của con người.

3. Soạn phần luyện tập trang 165 SGK Ngữ văn 7 đầy đủ

Câu 1: Liệt kê những từ ngữ chơi chữ có trong bài thơ sau:

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,

Rắn đầu biếng học chẳng ai tha.

Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,

Nay thét mai gầm rát cổ cha.

Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,

Lằn lưng cam chịu dấu roi tra,

Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học,

Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.

                          (Lê Quý Đôn)

- Trong đoạn văn trên tác giả đã dùng các từ sau để chơi chữ: liu điu, hổ lửa, mai gầm, ráo, lằn, lổ. Đây đều là tên các loài rắn. Chỉ chung các loài rắn.

Câu 2: Nhận xét các câu văn đã cho:

- Các câu văn đã cho dưới dây được sử dụng thủ pháp nghệ thuật chơi chữ đặc sắc.

- Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, dò đến hàng nem chả muốn ăn:

+ Những tiếng chỉ sự vật gần gũi: thịt, mỡ, dò, nem, chả -> thức ăn từ thịt.

+ Dùng lối nói chơi chữ thể hiện sự đánh tráo khái niệm dí dỏm.

- Bà đồ nứa, đi võng đòn tre, đến khóm trúc, thở dài hi hóp:

+ Những từ ngữ chỉ sự vật gần gũi: nứa, tre, trúc, hóp -> thuộc nhóm từ chỉ cây cối thuộc họ tre.

+ Dùng lối chơi chữ tạo sự dí dỏm, hài hước.

Câu 3: Sưu tầm một số bài thơ chơi chữ:

- "Kẻ sĩ ngại ăn diện

Dân bần thường tuỳ tiện

Công thần trí thường nông

Chỉ tụng, chẳng dám kiện".

- Càng lỏi lại càng len

Chưa chính đã đòi chuyên

Tưởng có tiền là tiến

Nghĩ tổ mình là tiên".

- "Chàng cóc ơi! Chàng cóc ơi!

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi".

-> Cách chơi chữ trong bài thơ này rất giống với cách chơi chữ trong bài thơ của Lê Quý Đôn: sử dụng từ đồng âm và từ gần nghĩa: cóc, bén, (nhái bén), nòng nọc, chuộc (chẫu chuộc), chàng (chẫu chàng) đều là họ hàng của cóc, ếch, nhái.

Câu 4: Nhận xét văn bản sau đây:

"Cảm ơn bà biếu gói cam,

Nhận thì không đúng, từ làm sao đây?

Ăn quả nhớ kẻ trống cây,

Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai?"

- Bài thơ trên nói về sự việc năm 1946 bà Hằng Phương biếu Bác Hồ một gói cam, Bác Hồ đã làm nên bài thơ này để tỏ lòng biết ơn.

- Trong bài thơ này, Bác Hồ đã chơi chữ bằng các từ đồng âm: cam. Thành ngữ Hán việt: khổ tận cam lai (khổ: đắng, tận; hết, cam: ngọt, lai: đến).

- Nghĩa bóng của thành ngữ này là hết khổ sở đến lúc sung sướng. “Cam” trong “cam lai” và cam trong gói “cam” là đồng âm.

Ngày:27/10/2020 Chia sẻ bởi:Thi

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM