Đề cương hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế chính trị có lời giải
Hy vọng với Đề cương hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế chính trị có lời giải chi tiết này sẽ cung cấp những kiến thức bổ ích cho các bạn trong quá trình ôn tập nâng cao kiến thức trước khi bước vào kì thi của mình. Mời các bạn cùng eLib tham khảo!
Câu 1: Phân tích vai trò nền sản xuất xã hội và các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu các yếu tố sản xuất cơ bản với nền sản xuất ở nước ta hiện nay.
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội
Đời sống xã hội loài người có nhiều mặt hoạt động chính trị, văn hoá nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, tôn giáo... Nhưng trước khi tiến hành các hoạt động đó con người phải sống. Muốn sống phải có thức ăn, đồ mặc, nhà ở và các tư liệu sinh hoạt khác. Để có những thứ đó, con người phải lao động sản xuất. Phải sản xuất không ngừng với qui mô ngày càng mở rộng, tốc độ ngày càng cao mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.
Vì vậy, sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội và lao động sản xuất là hoạt động cơ bản nhất của loài người, có vai trò quyết định đối với các mặt hoạt động khác. Ngày nay, mặc dù ngành dịch vụ sản xuất và đời sống phát triển nhanh chóng song chân lý trên vẫn còn nguyên giá trị.
Các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất
Bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, kể cả nền sản xuất hiện đại đều có đặc trưng chung là có sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản: sức lao động của con người, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
- Sức lao động là tổng hợp toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể sống của con người, là khả năng lao động của con người. Khi sức lao động được tiêu dùng trở thành lao động. Lao động là hoạt động riêng của loài người, nó khác về cơ bản so với hoạt động bản năng của động vật.
- Đối tượng lao động là tất cả những vật mà lao động tác động vào để biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của con người. Đối tượng lao động có hai loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên, loại này thường là đối tượng của các ngành công nghiệp khai thác.
+ Loại đã có sự tác động của lao động gọi là nguyên liệu, loại này thường là đối tượng của công nghiệp chế biến.
Với sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tạo ra nhiều đối tượng lao động có chất lượng mới.
- Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động cho phù hợp với nhu cầu của mình. Tư liệu lao động gồm:
+ Công cụ lao động là bộ phận quan trọng nhất của tư liệu lao động, tác động trực tiếp vào đối tượng lao động, quyết định trực tiếp năng suất lao động. Trình độ công cụ lao động là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế.
+ Hệ thống yếu tố vật chất phục vụ quá trình sản xuất (như nhà xưởng, bến bãi, kho tàng, ống dẫn, băng chuyền, đường xá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc...) gọi chung là kết cấu hạ tầng của sản xuất xã hội. Nền sản xuất xã hội ngày càng hiện đại đòi hỏi kết cấu hạ tầng càng phát triển và hoàn thiện.
Đối tượng lao động và tư liệu lao động kết hợp lại thành tư liệu sản xuất. Sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra của cải vật chất là lao động sản xuất.
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện của các yếu tố cơ bản của sản xuất.
Từ nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn hiện đại, việc nghiên cứu các yếu tố cơ bản của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. Ba yếu tố cơ bản này ở nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất lớn hiện đại, của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay. Vì vậy, nước ta sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng lao động, đào tạo nhân tài được đặt thành quốc sách hàng đầu, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật được gọi là then chốt để khai thác các tài nguyên như đất đai, rừng, biển, khoáng sản... với tốc độ cao và hiệu quả.
Câu 2: Phân tích đối tượng và chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lê nin?
Đối tượng của kinh tế chính trị
Kinh tế chính trị học nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người hình thành trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất, tức là nghiên cứu quan hệ sản xuất.
Nó không nghiên cứu quan hệ sản xuất một cách cô lập mà nghiên cứu nó trong mối quan hệ tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng trong một chừng mực cần thiết nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu quan hệ sản xuất.
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất nhưng không chỉ nghiên cứu các hiện tượng bề ngoài mà thông qua các hiện tượng bề ngoài để nghiên cứu bản chất của quan hệ sản xuất, vạch ra các quy luật vận động của quan hệ sản xuất, các quy luật kinh tế.
Quy luật kinh tế phản ánh những mối quan hệ tất yếu, bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Ví dụ: Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội phát sinh ra mối liên hệ tất yếu bền vững giữa lượng lao động hao phí ngày càng giảm với lượng sản phẩm làm ra ngày càng tăng, mối quan hệ tất yếu này là quy luật tăng năng suất lao động xã hội.
Quy luật kinh tế chỉ có thể phát sinh thông qua sự hoạt động của con người.
Trong mỗi phương thức sản xuất có 3 loại quy luật kinh tế hoạt động đó là:
Quy luật kinh tế chung cho mọi phương thức sản xuất ( quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất)
Quy luật kinh tế chung cho một số phương thức sản xuất (quy luật giá trị)
Quy luật kinh tế đặc thù của mỗi phương thức sản xuất trong đó có một quy luật kinh tế cơ bản phản ánh bản chất chung của phương thức sản xuất và quy định xu hướng vận động của phương thức sản xuất đó.
Các phương thức sản xuất khác nhau bởi các quy luật kinh tế đặc thù nhưng lại quan hệ với nhau bởi những quy luật kinh tế chung.
Chức năng của kinh tế chính trị
Chức năng nhận thức: Thực hiện chức năng này kinh tế chính trị học nghiên cứu và giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế của đời sống xã hội để phát hiện bản chất của các hiện tượng và các quy luật chi phối sự vận động của chúng.
Chức năng thực tiễn: Kinh tế chính trị học không chỉ phát hiện các quy luật kinh tế mà còn nghiên cứu cơ chế, các phương pháp và hình thức vận dụng chúng vào thực tiễn phù hợp với hoàn cảnh cụ thể trong từng thời kỳ nhất định. Và cũng từ thực tiễn để rút ra các luận điểm, kết luận có tính khái quát làm cơ sở khoa học để Nhà nước xác định đường lối, chính sách, biện pháp kinh tế. Cuộc sống là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chính sách, biện pháp kinh tế và xa hơn nữa là kiểm nghiệm những kết luận mà kinh tế chính trị đã nhận thức trước đó.
Chức năng phương pháp luận. Kinh tế chính trị là cơ sở lý luận của toàn bộ các khoa học kinh tế ngành (kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng...), các môn kinh tế chức năng (kinh tế lao động, kế hoạch, tài chính, tín dụng...), các môn khoa học có nhiều kiến thức liên quan như địa lý kinh tế, dân số học, lịch sử kinh tế quốc dân, lý thuyết về quản lý.
Chức năng tư tưởng. Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất xã hội, tức nghiên cứu những vấn đề liên quan thân thiết đến lợi ích kinh tế của mọi người, mọi giai cấp. Một quan điểm kinh tế nào đó hoặc công khai, hoặc ẩn giấu nói lên lợi ích của một giai cấp xã hội nhất định. Không có kinh tế chính trị học trung lập hoặc đứng trên các giai cấp.
Câu 3: Trình bày phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lê nin. Lấy ví dụ minh hoạ?
Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học là phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trừu tượng hoá khoa học là từ những tồn tại hiện thực phong phú của quá trình và hiện tượng kinh tế, tách những nhân tố thứ yếu có tính chất tạm thời, ngẫu nhiên, cá biệt để lấy nhân tố điển hình, phổ biến để nghiên cứu trong trạng thái thuần tuý của nó.
Ví dụ: Trong xã hội tư sản, ngoài giai cấp tư sản và vô sản ra còn có các giai cấp khác, nhưng khi nghiên cứu lại giả định xã hội tư sản chỉ có hai giai cấp tư sản và vô sản để làm cho quá trình nghiên cứu được thuận lợi.
Trừu tượng hoá khoa học là quá trình đi sâu vào đối tượng nghiên cứu, xuất phát từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng mà kết quả của quá trình đó là những khái niệm, phạm trù kinh tế phản ánh mặt này hay mặt khác của quan hệ sản xuất. Ví dụ: hàng hoá, giá trị, tiền tệ, giá trị thặng dư... đến quy luật kinh tế.
Các môn khoa học khác ngoài phương pháp trừu tượng hoá, người ta còn có thể dùng phương pháp thí nghiệm trong phòng thí nghiệm nhân tạo, song với kinh tế chính trị học không như vậy được mà sức mạnh chủ yếu là trừu tượng hoá. Ngoài sự trừu tượng hoá còn có thể kết hợp chặt chẽ với lôgic và lịch sử, thống kê.
Câu 4: Phân tích điều kiện lịch sử xuất hiện tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa trọng thương và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
Điều kiện lịch sử xuất hiện chủ nghĩa trọng thương
- Cuối Thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến ở thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ Tư bản ở Tây Âu.
- Thời kỳ kinh tế hàng hoá đã phát triển mạnh, thị trường trong nước mở rộng, tầng lớp thương nhân dần dần trở thành thế lực bá chủ xã hội.
- Thời kỳ có nhiều phát kiến về địa lý: Tìm ra đường biển từ Tây Âu sang ấn Độ, phát hiện ra Châu Mỹ. Những phát kiến đó đã tạo khả năng mở rộng thị trường, làm cho mậu dịch thế giới phát triển, tiếp đó là chiến tranh cướp bóc thuộc địa, chiến tranh thương mại, buôn bán người nô lệ da đen.
- Thời kỳ có nhiều môn khoa học tự nhiên phát triển (cơ học, thiên văn, địa lý...)
- Thời kỳ xuất hiện phong trào phục hưng chống lại tư tưởng thời trung cổ, chủ nghĩa duy vật, chống lại chủ nghĩa duy tâm của nhà thờ.
Tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa trọng thương
- Coi tiền tệ là nội dung căn bản của của cải và làm thế nào để có nhiều tiền tệ (vàng, bạc...). Từ tư tưởng này họ nêu ra yêu cầu mọi hoạt động kinh tế đều phải thu hút nhiều vàng, bạc vào trong nước.
Dựa trên ý niệm quốc gia. Quyền lợi của quốc gia phải đặt trên hết. Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế. Họ cho rằng sáng kiến của tư nhân vẫn tốt, cần tôn trọng song phải có sự hướng dẫn, phối hợp của Nhà nước như Nhà nước trực tiếp điều tiết lưu thông tiền tệ, cấm xuất khẩu vàng, bạc. Sau khi bán hàng phải mua vàng mang về nước, khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, phải xuất siêu hàng hoá, xây dựng hàng hải thuỷ quân để chiếm thuộc địa, thực hành chiến tranh thương mại.
Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương: Việc giải thích các vấn đề còn đơn giản, mô tả bề ngoài, cách nhìn còn phiến diện, dừng lại ở lĩnh vực lưu thông, chưa nghiên cứu ở lĩnh vực sản xuất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu trọng thương
- Tầng lớp thương nhân là một lực lượng nghiên cứu đầu tiên phá vỡ kinh tế tự nhiên, sản xuất hàng hoá nhỏ, tích luỹ vốn làm tiền để cho kinh tế từ kém phát triển sang kinh tế phát triển là khâu đột phá đầu tiên để phá vỡ "vòng luẩn quẩn" của sản xuất nhỏ.
- Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế đang phát triển sang nền kinh tế phát triển thì ngoại thương là một nhân tố quan trọng, Nhà nước cần khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, tiến tới xuất siêu để một mặt sử dụng được sức lao động, tài nguyên thiên nhiên trong nước một cách hiệu quả, mặt khác xây dựng thị trường nước ngoài cũng có tác dụng sản xuất trong nước phát triển. Ngoại thương còn có tác dụng góp phần tích luỹ vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước cũng phải trực tiếp điều tiết lưu thông tiền tệ, vàng, bạc, ngoại tệ mạnh phải được tập trung vào cơ quan duy nhất là Ngân hàng Nhà nước.
Câu 5: Phân tích điều kiện lịch sử xuất hiện, tư tưởng kinh tế tư bản của chủ nghĩa trọng nông và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
Điều kiện lịch sử xuất hiện chủ nghĩa trọng nông
- Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII, tức là thời kỳ chuyển từ chủ nghĩa phong kiến sang chủ nghĩa Tư bản.
- Tây Ban Nha do nhiều vàng, bạc, giá cả tăng, đời sống nhân dân cơ cực nên nhiều người không tin vào chủ nghĩa trọng thương.
- Thời kỳ nền kinh tế Pháp suy thoái, công nghệ không tăng, giao thông khó khăn, kìm hãm thương nghiệp, nông nghiệp suy sụp.
- Thế kỷ XVIII ở Pháp có nhiều nhà Triết học nổi tiếng như Rút-xô (Rousseau) và Von-te (Voltaire) phê phán triệt để chế độ phong kiến, chuẩn bị cách mạng tư sản.
- Nhiều nhà kinh tế cho rằng cải cách kinh tế phải bắt đầu từ nông nghiệp.
Tư tưởng kinh tế chủ yếu của chủ nghĩa trọng nông nghiệp
- Đề cao nông nghiệp. Chủ nghĩa trọng nông cho rằng của cải của một quốc gia trước hết là lương thực và thực phẩm để thoả mãn các nhu cầu của đời sống hàng ngày. Số lượng nông sản càng nhiều thì đời sống càng tốt, nếu nông sản dư thừa có thể đem bán ở nước ngoài đổi lấy sản phẩm mà trong nước không sản xuất được.
- Ca ngợi thiên nhiên. Họ cho rằng, chỉ có nông nghiệp mới được hưởng sự trợ giúp đắc lực của thiên nhiên (mưa, nắng, thời tiết, độ mẫu mỡ của đất đai...). Đất đai còn nhiều, chỉ cần con người ra công khai khẩn, càng hưởng thêm sự trợ giúp của thiên nhiên. Chỉ có sản xuất nông nghiệp mới được coi là ngành sản xuất, vì chỉ có nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thặng dư.
- Ủng hộ tự do, phê phán sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế. Trong thiên nhiên đã có sự sắp xếp trật tự mà tạo hoá đã sắp đặt (đêm, ngày, bốn mùa, sông biển...) Con người phải tôn trọng sự sắp xếp đó thì mới tận hưởng được những gì mà thiên nhiên đã dành sẵn cho. Chính quyền nên gạt bỏ những gì do mình đặt ra trở ngại đến sản xuất, nhà nước nên hướng dẫn dân chúng phương pháp canh tác tiến bộ, người dân được tự do lựa chọn, tự do trao đổi sản phẩm do mình sản xuất ra.
- Đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa trọng nông là Phờ-răng-xoa Kênê người Pháp, mà tư tưởng kinh tế biểu hiện tập trung ở "biểu kinh tế" xuất bản năm 1758. Chủ nghĩa trọng nông đã đạt được những thành tựu trong lĩnh vực phát triển tư tưởng kinh tế khoa học nhưng còn những hạn chế, công nghiệp không tạo ra sản phẩm thặng dư mà chỉ có nông nghiệp tạo ra, chưa thấy vai trò của lưu thông, tuy nghiên cứu bản chất của hiện tượng kinh tế nhưng chưa nghiên cứu các khái niệm lý luận cơ sở.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa trọng nông nghiệp
Nước ta là một nước mà nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, nhưng từ 1976 đến 1985 nông nghiệp cũng lâm vào tình trạng suy giảm vì thực hiện cơ chế tập trung bao cấp, nhà nước can thiệp quá nhiều vào sản xuất. Đến năm 1986 Đảng ta đã đổi mới, xoá bỏ cơ chế đó chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thực hiện khoán hộ trong nông nghiệp, biến mỗi hộ gia đình xã viên thành một đơn vị kinh tế chủ sản xuất kinh doanh, tự do trao đổi sản phẩm. Vì vậy, từ thiếu lương thực đến thừa lương thực, xuất khẩu gạo và hàng hoá thứ ba trên thế giới.
Câu 6: Trình bày quan niệm về giá trị, tiền tệ, lợi nhuận, tiền lương, địa tô của Adam Smit (1723-1790) và nhận xét các quan niệm trên.
Quan niệm về giá trị: Phân biệt rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, bác bỏ quan điểm giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Đã định nghĩa đúng giá trị về hàng hoá là do lao động hao phí để sản xuất ra nó quyết định, nhưng lại có định nghĩa về giá trị sai là: giá trị bằng số lượng lao động sống mua được thông qua trao đổi hàng hoá. Cơ cấu giá trị chỉ có tiền công và giá trị thặng dư mà không có hao phí tư liệu sản xuất nên bế tắc khi phân tích tái sản xuất.
Quan niệm đúng về tiền tệ. Trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng (H - H) gặp khó khăn nên xuất hiện tiền tệ. Tiền tệ là môt hàng hoá đặc biệt được tách ra làm phương tiện lưu thông. Ông là người đầu tiên khuyên nên dùng tiền giấy.
Quan niệm về lợi nhuận: Ngày lao động của công nhân được chia làm hai phần: 1 phần bù lại tiền lương, phần còn lại là lợi nhuận. Nhưng lại kết luận lợi nhuận là do tư bản đầu tư sinh ra. Cạnh tranh bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận.
Quan niệm về tiền lương. Ông đã có quan niệm đúng về tiền lương: Tiền lương là thu nhập của người lao động, là số tiền cần thiết để người lao động sống. Các yếu tố quyết định tiền lương: giá trị các tư liệu sinh hoạt, trước hết là lương thực, lượng cầu về lao động, phân biệt tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế, tiền lương càng cao càng tốt. Sự phân tích tiền lương tiến bộ hơn phái trọng nông. ở phái trọng nông, tiền lương và lợi nhuận còn nhập làm một, còn Smit, tiền lương và lợi nhuận hình thành khác nhau.
Quan niệm về địa tô. Ông quan niệm đúng, rằng địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào kết quả lao động của công nhân, địa tô chênh lệch do đất đai mẫu mỡ và vị trí xa gần quyết định nhưng không nghiên cứu địa tô chênh lệch II và địa tô tuyệt đối. Adam Smit là "cha đẻ của kinh tế chính trị học", là nhà kinh tế nổi tiếng của nước Anh và thế giới.
Câu 7: Trình bày quan niệm về giá trị, tiền tệ, lợi nhuận, tiền lương, địa tô của D. Ri-cac-đô (1772-1823) và nhận xét các quan niệm trên.
Quan niệm về giá trị: Phân biệt rõ giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của hàng hoá, phủ nhận quan điểm giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Định nghĩa đúng về giá trị hàng hoá là do số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng quyết định, nhưng lại có định nghĩa không đúng về giá trị: có một loại hàng hoá, giá trị của chúng chỉ do sự khan hiếm của nó quyết định. Có quan điểm đúng năng suất lao động tăng lên thì giá trị một hàng hoá giảm xuống. Cơ cấu giá trị bao hàm cả hao phí tư liệu sản xuất.
Quan niệm về tiền tệ: Ông hiểu rõ bản chất hàng hoá của tiền tệ, tiền tệ cũng là hàng hoá, vàng, bạc cũng giống các hàng hoá khác. Số lượng tiền tệ trong nước phụ thuộc vào giá trị của chúng. Tiền tệ có chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông. Hạn chế của ông là không hiểu rõ nguồn gốc của tiền tệ và đơn giản hoá những chức năng của nó. Lý luận về tiền tệ là một khâu yếu nhất trong hệ thống lý luận kinh tế của ông.
Quan niệm về lợi nhuận: Giá trị hàng hoá do công nhân tạo ra luôn lớn hơn tiền lương. Lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền lương. Ông thấy được mâu thuẫn giữa tiền lương và lợi nhuận: tiền lương tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại, tiền lương giảm thì lợi nhuận tăng, tức là giữa công nhân và tư sản có mâu thuẫn về lợi ích. Nhưng hạn chế của Ri-các-đô là không phân biệt lợi nhuận thặng dư.
Quan niệm về tiền lương: Ông chưa phân biệt được lao động và sức lao động nên cho rằng tiền lương là giá cả của lao động. Tiền lương bằng giá cả các tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người công nhân và gia đình anh ta. Tiền lương cao hay thấp còn phụ thuộc vào cung - cầu về lao động lẽ ra nên coi là sức lao động. Ông lại không đúng khi cho rằng, tiền lương lức nào cũng ở mức thấp vì lương cao, công nhân sẽ đẻ nhiều làm cho cung về lao động sẽ lớn hơn cầu, tiền lương sẽ giảm xuống.
Quan niệm về địa tô. Ông cho rằng địa tô xuất hiện gắn liền với quyền tư hữu về ruộng đất và dựa vào quy luật giá trị để nghiên cứu địa tô: giá trị nông phẩm được hình thành khi kinh doanh trên ruộng đất xấu, nên kinh doanh trên ruộng đất tốt sẽ thu được địa tô chênh lệch. Hạn chế: Ông không nghiên cứu địa tô chênh lệch II và phủ nhận địa tô tuyệt đối, ông cũng nhất trí với Kênê cho rằng địa tô là tặng phẩm của những lực lượng tự nhiên, hoặc năng suất đặc biệt trong nông nghiệp.
David Ri-các-đô là nhà kinh tế nổi tiếng nước Anh và thế giới, là người đưa kinh tế chính trị cổ điển đến gần chân lý khoa học nhất, đồng thời cũng là người kết thúc kinh tế chính trị cổ điển.
Câu 8: Phân tích điều kiện lịch sử xuất hiện và tư tưởng cơ bản của học thuyết Keynes (1883-1946). ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này?
Điều kiện lịch sử xuất hiện học thuyết Keynes
Những năm 30 của thế kỷ XX, các tổ chức độc quyền đã thống trị nền sản xuất xã hội, nền sản xuất đã xã hội hoá rất cao, sự phân công lao động xã hội phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các lĩnh vực kinh tế quan hệ chặt chẽ với nhau trong một cơ thể kinh tế thống nhất. Vì vậy, chỉ cần một ngành kinh tế khủng hoảng là cả nền sản xuất xã hội khủng hoảng dữ dội. Cuộc khủng hoảng kinh tế Tư bản chủ nghĩa thế giới 1929 - 1933 là một chứng minh Keynes cho rằng: thuyết "Bàn tay vô hình", cơ chế thị trường từ điều tiết nền sản xuất xã hội của Smit không còn tác dụng nữa, mà nền sản xuất xã hội hoá cao đó đòi hỏi phải có sự điều tiết từ một trung tâm đó là nhà nước tức là "bàn tay hữu hình" để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tư tưởng cơ bản của học thuyết Keynes
Lý thuyết về "sức cung tổng quát" và "sức cầu tổng quát". Ông cho rằng điều tiết nền kinh tế nên chú ý hai yếu tố cơ bản "sức cung tổng quát" và "sức cầu tổng quát" tức là tổng số hàng hoá các nhà sản xuất đưa ra thị trường bán và tổng số hàng hoá mà những người tiêu thụ muốn mua trên thị trường. Giữa hai yếu tố này ít khi cân bằng và trong hầu hết các trường hợp "tổng cầu" thường thấp hơn "tổng cung", khiến cho "tổng cung" có xu hướng giảm xuống, dẫn đến giảm việc làm, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế. Do đó vấn đề then chốt là phải tăng "tổng cầu" cả về tiêu thụ và đầu tư. Nếu "tổng cầu" lớn hơn "tổng cung" sẽ làm tăng sức đầu tư, tăng việc làm, tăng sản lượng quốc gia, tránh được khủng hoảng kinh tế. Người ta còn gọi học thuyết của Keynes là thuyết "Trọng cầu"
Tổng cầu phụ thuộc vào các yếu tố: thu nhập của dân cư, trong đó một phần nộp thuế, một phần chi tiêu gia đình, một phần tiết kiệm. Phần tiết kiệm là cơ sở của đầu tư.
Tổng cầu = Chi tiêu gia đình + Chi tiêu của Chính phủ + Chi tiêu cho đầu tư
Thuyết bội số đầu tư. Theo Keynes vai trò của đầu tư có tác dụng nhân bội đối với sản lượng quốc gia. Một thay đổi nhỏ đến đầu tư cũng dẫn đến thay đổi lớn trong "tổng cầu" và "tổng cung". Vì nguồn đầu tư ban đầu sẽ có tác dụng mở rộng thu nhập, mở rộng chi tiêu và sản lượng quốc gia. Từ đó phải sử dụng ngân sách Nhà nước để kích thích đầu tư của tư nhân và nhà nước. Nhà nước thực hiện các đơn đặt hàng, trợ cấp tài chính, tín dụng để đảm bảo ổn định lợi nhuận và đầu tư.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này
- Nền kinh tế nước ta những năm 80 của Thế kỷ XX lâm vào tình trạng suy thoái và lạm phát. Để chấn hưng nền kinh tế phải chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Một trong những biện pháp quan trọng là Nhà nước đã sử dụng công cụ tài chính, tín dụng, luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài nên qua 5 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi tình trạng suy thoái và lạm phát.
Mời các bạn bấm nút TẢI VỀ hoặc XEM ONLINE để tham khảo đầy đủ Đề cương hướng dẫn ôn tập môn Kinh tế chính trị có lời giải!
Để củng cố kiến thức và nắm vững nội dung bài học mời các bạn cùng làm Bộ câu hỏi trắc nghiệm môn Kinh tế chính trị có đáp án dưới đây.
Tham khảo thêm
- pdf Ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm môn Kinh tế chính trị theo chương
- pdf Tổng hợp 600 câu trắc nghiệm môn Kinh tế chính trị có đáp án
- pdf 100 Câu hỏi trắc nghiệm môn Kinh tế chính trị có đáp án
- pdf 85 câu hỏi trả lời nhanh môn Kinh tế chính trị có đáp án
- pdf Đề cương ôn tập môn Kinh tế chính trị
- pdf Tổng hợp các công thức và bài tập về lý thuyết thặng dư Kinh tế chính trị
- pdf 30 Câu hỏi ôn tập môn Kinh tế chính trị có lời giải chi tiết
- pdf Chọn lọc 245 Câu hỏi trắc nghiệm ôn tập môn Kinh tế chính trị có đáp án