Cây ba kích - Trị lưng đau gối mỏi, liệt dương, tảo tinh, lãnh cảm, thận hư
Ba kích là vị thuốc quý, thuộc họ Cà phê (danh pháp khoa học: Rubiaceae). Rễ của cây được thu hái làm dược liệu vì có tác dụng đa dạng như trị lưng đau gối mỏi, liệt dương, tảo tinh, lãnh cảm, thận hư, tê bại, thần kinh suy nhược, di tinh, tiết tinh, mất ngủ,…
Mục lục nội dung
Còn có tên ba kích thiên, cây Ruột gà, chẩu phóng xì (Hảì Ninh), thao tầy cáy, ba kích nhục, liên châu ba kích.
Tên khoa học Morinda offcinalis How.
Thuộc họ Cà phê Rubiaceae.
Người ta thường dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Morindae) của cây ba kích.
1. Mô tả cây
Cây loại thảo, sống lâu năm, thần leo, lá mọc đối, cứng nhọn, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, hình mác, non có màu xanh, về già có màu trắng mốc. Hoa lúc đầu trắng, sau vàng, 2-10 cánh hoa, 4 nhị. Quả hình cầu, khi chín màu đỏ.
2. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây ba kích mọc hoang ở ven rừng, trên đồi râm giữa các bụi bờ, bãi hoang nhiều nhất ở Quảng Ninh (Hải Ninh, Hồng Quảng), Hà Tây, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang. Nhưng hiện không đủ nhu cầu. Cần nghiên cứu trồng. Rễ đào quanh năm, tốt nhất vào thu đông. Đào về rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô. Khi gần khô đập dẹt rồi lại phơi cho thật khô.
3. Thành phần hóa học
Trong rễ ba kích chủ yếu có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất đường, nhựa và axít hữu cơ. Rễ tươi có vitamin C. Theo các tài liệu cũ, chỉ có vìtamin c, nhưng ba kích khô không có vitamin c.
4. Tác dụng dược lý
Nước sắc ba kích có tác dụng làm tăng sự co bóp của ruột và giảm huyết áp, không có độc.
5. Công dụng và liều dùng
Tính vị theo tài liệu cố: Ba kích có vị cay ngọt, tính hơi ôn. Vào thận kình. Có tác dụng ôn thận trợ dương, mạnh gân cốt, khử phong thấp. Dùng chữa dương ủy, phong thấp cước khí, gân cốt yếu, mềm, lưng gối mỏi đau. Người âm hư, hỏa thịnh, đại tiện táo bón cấm dùng. Trong nhân dân, ba kích là một vị thuốc bổ trí não và tinh khí, dùng trong các bệnh liệt dương, sớm xuất tinh, di mộng tinh, phụ nữ kinh nguyệt không đều. Còn dũng chữa bệnh phong thấp, mạnh gân cốt. Ngày dùng 4-10g dưới dạng thuốc sắc hay cao lỏng. Nhân dân ở những nơi có cây này mọc hoang thường đào củ này về nấu với thịt gà, ăn để bồi bổ sức khỏe.
Ở Trung Quốc có dùng ba kích trong đơn thuốc “Nhị tiên thang” để chữa bệnh cao huyết ấp có kết quả. Đặc biệt đối với phụ nữ bị cao huyết áp ở thời kỳ hết kinh, kết quả thấy rõ rệt. Theo Đợi chúng y học 9/1959 trang 332 đã chữa 360 trường kết quả đạt tới 74%. Đơn thuốc như sau:
Tiên mao (Curculigo orchioides), dâm dương hoắc (Epimedium grandiflorum), ba kích (Morinda officinalis), tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides ), hoàng bá (Phellodendron amurense), đương quy (Angelica sinensìs ) mỗi vị 12g, nước 600ml. sắc còn 200ml. Chia ba lần uống trong ngày. Thời gian điều trị 3 tháng.
6. Đơn thuốc khác có ba kích
Ba kích nhục 10g, thục địa 10g, nhân sâm (hoặc đảng sâm) 4g, thỏ ty tử 6g, bổ cốt toái 5g, tiểu hổi hương 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia ba lần uống trong ngày. Dùng chữa nhũng người già yếu chân gối, tê mỏi.
Trên đây là bài viết của eLib.VN về cây ba kích. Thông tin trong bài viết về dược liệu ba kích chỉ mang tính chất tham khảo. Vui lòng liên hệ với bác sĩ chuyên khoa để nhận được tư vấn chuyên môn trước khi thực hiện các bài thuốc từ thảo dược này.