Phát biểu tự do Ngữ văn 12
Phát biểu tự do là một nhu cầu (muốn người khác nghe mình nói) đồng thời là một yêu cầu (người khác muốn được nghe mình nói). Qua phát biểu tự do, con người sẽ hiểu người, hiểu mình và hiểu đời. eLib mời các em tham khảo bài học Phát biểu tự do dưới đây nhé.
Mục lục nội dung
1. Khái niệm
a. Ví dụ: nêu ví dụ về phát biểu tự do như:
- Quan điểm chọn người yêu.
- Cảm tưởng của mình khi được dự một lễ sinh nhật ,một cuộc đi chơi.,một bữa tiệc,khi xem một cuộc thi hoa hậu,hoặc quan điểm của bạn về cách ăn mặc…
b. Khái niệm: Phát biểu tự do là dạng thường gặptrong đời sống ,ở đó người phát biểu có thể hào hứng trình bày những ý kiến của mình với người nghe,đó là những ý kiến hoàn toàn không theo chủ đề nào đã quy định trước ,đã chuẩn bị trước.
c. Phát biểu tự do khác với phát biểu theo chủ đề
- Người nói tự tìm chủ đề nội dung phát biểu.
- Chủ đề nội dung đó có thể nảy sinh bất ngờ ,ngẫu nhiên ngoài dự tính.
2. Những nhu cầu thôi thúc con người phát biểu tự do
a. Phát biểu tự do sinh ra từ tình huống trong đời sống
- Khi có ai gợi lên xôn xao một kỉ niệm,một nỗi niềm mà lòng người phát biểu từng ấp ủ
- Một điều tâm niệm ,một bài học,một điều trăn trở về đời sống …ai đó gợi ra.
b. Để phát biểu tự do cần
- Phải sống hết mình mới tìm ra chủ đề,nội dung phát biểu tự do.
- Phải tích lũy làm giàu vốn sống ,vốn hiểu biết với ý kiến thật riêng.
3. Những yếu tố giúp phát biểu tự do thành công
- Có hứng thú,am hiểu vấn đề mình phát biểu.
- Bám sát chủ đề ,không để xa đề,lạc đề.
- Rèn luyện kĩ năng tìm ý,sắp xếp ý nhanh chóng.
- Phải chú ý đến người nghe,hướng vào những nội dung mới mẻ ,thú vị, làm cho họ thích thú.để điều chỉnh kịp thời.
- Diễn đạt ý kiến của mình thành một số câu ,đoạn,không bắt buộc làm bài văn hoàn chỉnh.
4. Tưởng tượng tình huống để phát biểu tự do
a. Ví dụ:
- Vấn đề sành điệu trong thanh niên học sinh.
- Vấn đề thi hoa hậu ở nước ta.
- Vấn đề chọn nghề của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT.
b. Để phát biểu tự do cần
- Chọn chủ đề.
- Nguyên nhân vì sao.
- Phác thảo những ý chính, sắp xếp ý.
- Làm thế nào để thu hút sự chú ý của người nghe (xem SGK trang 164 tất cả các ý đã nêu).
5. Luyện tập
Câu 1. Chứng minh rằng, dù không được phát biểu theo những nội dung đã chuẩn bị kĩ từ trước, nhưng nếu được nói ra những quan điểm mà mình từ lâu đã nghiền ngẫm, nung nấu và tâm đắc, thì người phát biểu tự do vẫn có thể đem lại cho người nghe nhiều ý kiến riêng sâu sắc, mới mẻ, bất ngờ.
Gợi ý làm bài:
Chẳng hạn như trường hợp của Tố Hữu trong buổi nói chuyện với giáo viên dạy văn của Thủ đô Hà Nội năm 1963. Nhà thơ lâm vào tình huống: “Đến đây, các đồng chí lại nêu lên một số câu hỏi về văn thơ giảng dạy văn thơ nói chung. Các đồng chí “tra hỏi” nhiều quá”. Và vì thế, ông rơi vào tình trạng phải “nghĩ gì nói vậy” : “Trong buổi trò chuyện hôm nay, nghĩ gì nói vậy, không khỏi có điều chủ quan, thiếu sót”. Nghĩa là nhà thơ, dù muốn hay không muốn, cũng phải thực hiện một bài phát biểu tự do.
Thế nhưng, bài phát biểu tự do ấy (sau này, khi được in ra sẽ mang tên gọi Câu chuyện về thơ) lại trở thành một tác phẩm thực sự đặc sắc, đáng nhớ. Nguyên nhân chủ yếu chỉ có thể là: Những câu hỏi mà Tố Hữu nhận được đã chạm tới một trong những niềm hứng thứ lớn nhất của một nhà thơ.
Chính vì thế, dù câu hỏi đến với ông bất chợt, Tố Hữu vẫn có thể nói ra những điều tâm huyết mà lâu nay ông vẫn hằng ôm ấp. Và đấy là lí do để những ý kiến của ông trở nên chín chắn, sâu sắc, đồng thời lại mới mẻ, lí thú, đem lại rất nhiều bổ ích không chỉ cho người dạy, mà cả cho những ai đang thực sự muốn học tốt môn Ngữ văn. Ví dụ như :
"Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát…"
Nếu dạy văn mà hoá thành giờ dạy chính trị thì nên lấy một bài xã luận hoặc một tác phẩm chính trị mà dạy, tốt hơn là dùng một tác phẩm văn học. Dạy văn thì phải thông qua hình tượng nghệ thuật mà làm cho học sinh cảm hiểu được cái phải, cái hay, chứ không phải giảng dạy bằng những khái niệm trừu tượng.
Trong hai câu sau có âm vang của gió và sóng, có cả âm vang của một tấm lòng. Nếu viết : “Gió thổi xôn xao, sóng biển rì rào” thì có lẽ không còn gì. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn tả tình trong cảnh. Nhịp điệu của hai câu thơ là nhịp điệu của sóng gió và cũng là nhịp điệu nao nức, xôn xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình.
[…] Nên giảng như thế nào cho học sinh cảm xúc, khoan khoái, bị lôi cuốn theo “cú đánh”. Làm thế nào cho các em hiểu được ý định và nghệ thuật của tác giả. Các em có thể quên tất cả, nhưng phần còn lại trong lòng các em phải là cái gì rất sâu, rung động cả một đời người.
(Tố Hữu, Câu chuyện về thơ, trong Xây dựng một nền văn nghệ lớn, xứng đáng với nhân dân ta, với thời đại ta, NXB Văn học, Hà Nội, 1973)
Câu 2. Hãy hình dung tình huống : Anh (chị) đang tham gia vào một cuộc trò chuyện giữa một nhóm bạn bè. Câu chuyện bất ngờ chạm vào một điều mà anh (chị) đang ấp ủ, làm nảy sinh trong anh (chị) nhu cầu được phát biểu điều đó với mọi người.
Gợi ý làm bài:
Lời của Vũ Trọng Phụng – nhà văn phải chịu “cả một cuộc đời khổ ải, đắng cay, viết đến tối tăm mặt mũi […] mà vẫn phải chết trong nghèo nàn, túng thiếu” – nói với một đồng nghiệp, khi nghe người này kể lại những cách xoay xở để cứu tờ báo mà chính ông thường vẫn gửi đăng bài :
Phụng không tái sắc hay cất cao giọng lên tỏ vẻ tức giận, anh ôn tồn nói, tuy nhiên những lời ôn tồn ấy đau đớn không biết chừng nào khiến cho tôi vừa giận mà lại vừa phục, và tôi nhận rằng cho đến bây giờ những câu nói ấy vẫn in sâu vào óc tôi và một hướng đi lành mạnh cho đời làm văn viết báo của tôi sau này. Phụng nói :
– Tao không ngờ mày lại hèn đến thế (trong anh em, riêng Phụng với tôi vẫn gọi nhau bằng tao và mày như lúc lên năm sáu tuổi). Tao nghĩ rằng mình không có tiền thì đi vay, khi có thì mình trả, không ai khinh được mình, nhưng làm tiền dù là doạ nạt, dù là bán tình cảm, dù là đi cổng hậu thì cũng đều là nhục […]. Không có tiền thì […] về “ăn cơm sót” hay là đi quét đường có hơn không ? Mày ra tờ báo đã chắc gì có ích cho đời chưa hay chỉ lấy tờ báo ra mượn cớ “làm dư luận” để kiếm cách sinh nhai ?.
(Vũ Bằng, Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng, trong Mười bốn gương mặt nhà văn đồng nghiệp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004)
6. Kết luận
Qua bài học này các em cần nắm một số nội dung chính sau:
- Có những hiểu biết sơ bộ về phát biểu tự do.
- Nắm được một số yêu cầu và nguyên tắc về phát biểu tự do.
- Từ tình huống cụ thể trong đời sống biết lựa chọn chủ đề phát biểu tự do, xây dựng đoạn văn ngắn để phát biểu chủ đề đã lựa chọn.
- Bước đầu vận dụng được những kiến thức và kĩ năng đó vào công việc phát biểu tự do về một chủ đề mà em thấy hứng thú và có mong muốn trao đổi với người nghe.
Tham khảo thêm
- doc Vợ chồng A Phủ Ngữ văn 12
- doc Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Ngữ văn 12
- doc Nhân vật giao tiếp Ngữ văn 12
- doc Vợ nhặt Ngữ văn 12
- doc Nghị luận về một tác phẩm một đoạn trích văn xuôi Ngữ văn 12
- doc Rừng xà nu Ngữ văn 12
- doc Đọc thêm: Bắt sấu rừng U Minh Hạ Ngữ văn 12
- doc Những đứa con trong gia đình Ngữ văn 12
- doc Viết bài làm văn số 6: Nghị luận văn học Ngữ văn 12
- doc Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12
- doc Thực hành về hàm ý Ngữ văn 12
- doc Đọc thêm: Mùa lá rụng trong vườn Ngữ văn 12
- doc Đọc thêm: Một người Hà Nội Ngữ văn 12
- doc Thực hành về hàm ý (tiếp theo) Ngữ văn 12
- doc Văn bản: Thuốc Ngữ văn 12
- doc Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài trong bài văn nghị luận Ngữ văn 12
- doc Số phận con người Ngữ văn 12
- doc Ông già và biển cả Ngữ văn 12
- doc Diễn đạt trong văn nghị luận Ngữ văn 12
- doc Hồn Trương Ba, da hàng thịt Ngữ văn 12
- doc Diễn đạt trong văn nghị luận (tiếp theo) Ngữ văn 12
- doc Nhìn về vốn văn hóa dân tộc Ngữ văn 12
- doc Phong cách ngôn ngữ hành chính Ngữ văn 12
- doc Văn bản tổng kết Ngữ văn 12
- doc Tổng kết phần tiếng Việt: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ Ngữ văn 12
- doc Ôn tập phần Làm văn Ngữ văn 12
- doc Giá trị văn học và tiếp nhận văn học Ngữ văn 12
- doc Tổng kết phần Tiếng Việt: Lịch sử, đặc điểm loại hình và phong cách ngôn ngữ Ngữ văn 12
- doc Ôn tập phần Văn học Ngữ văn 12