Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
Bài văn mẫu dưới đây nhằm giúp các em hiểu hơn về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. Đồng thời, bài văn mẫu này còn giúp các em có kĩ năng viết một bài văn nghị luận văn học tốt. Mời các em cùng tham khảo nhé!
Mục lục nội dung
1. Dàn ý phân tích bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" của Nguyễn Du
a. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du: Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm.
- Giới thiệu về “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí): Đọc Tiểu Thanh kí là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du, thể hiện cảm xúc, suy tư của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, qua đó giúp chúng ta có cảm nhận sâu sắc về tấm lòng nhân đọa của ông.
b. Thân bài:
- Hai câu đề:
+ Hình ảnh thơ đối lập giữ quá khứ và hiện tại: Tây Hồ hoa uyển (vườn hoa bên Tây Hồ) - thành khư (gò hoang).
+ Động từ “tẫn”: đến cùng, triệt để, hết.
-> Câu thơ gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khư và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ nay đã thành bãi đất hoang rồi. Từ đó, gợi sự xót xa trước sự đổi thay, sự tàn phá của thời gian đối với cái đẹp.
+ Cách sử dụng từ ngữ: độc điếu (một mình viếng) - nhất chỉ thư (một tập sách).
+ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh.
=> Hai câu thơ diễn tả tâm trạng của Nguyễn Du trước cảnh hoaong tàn, đó cũng chính là nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho số phận của nàng Tiểu Thanh.
- Hai câu thực:
+ Nghệ thuật hoán dụ:
- Son phấn: tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ.
- Văn chương: tượng trưng cho tài năng.
- Từ ngữ diễn tả cảm xúc: hận, vương.
- “Chôn”, “đốt” là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phủ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh ⇒ thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.
-> Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.
=> Hai câu thơ cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời cũng là tấm lòng trân trọng, ngợi ca nhan sắc và đề cao tài năng trí tuệ của Tiểu Thanh; đồng thời có sức tố cáo mạnh mẽ.
- Hai câu luận:
+ “Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.
+ Thiên nan vấn: khó mà hỏi trời được.
-> Câu thơ mang tính khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện sự đau đớn phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.
+ Kì oan: nỗi oan lạ lùng.
+ Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa mà giờ đây ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.
=> Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”
- Hai câu kết:
+ Nghệ thuật: Câu hỏi tu từ. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho chính mình.
+ “Khấp”: khóc. Tiếng khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt không kìm nén được. Ông không viết đơn thuần mà khóc cho Tiểu Thanh. Ông băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc ông.
+ Thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu). Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khư nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai.
=> Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.
c. Kết bài: Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản: Thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài có sắc trong xã hội phong kiến. Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.
2. Phân tích bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" của Nguyễn Du
Bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" là bài thơ thể hiện sự đồng cảm của Nguyễn Du với số phận hồng nhan bạc phận của nàng Tiểu Thanh, hay đó chính là sự xót thương cho chính thân phận của tác giả. "Độc Tiểu Thanh kí" là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du đã giới thiệu khung cảnh và sự gặp gỡ giữa tiếng lòng của ông với nàng Tiểu Thanh:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Tác giả đã mở đầu hai câu thơ bằng cảnh thiên nhiên có vẻ hoang tàn và vắng vẻ để nói đến thân phận hồng nhan bạc phận cả nàng Tiểu Thanh. Ở hai câu thơ này Nguyễn Du đã cho ta thấy cảnh đẹp của vườn hoa Tây Hồ đã có sự biến đổi “tẫn thành khư”. Từ một cảnh đẹp nay trở thành bãi đất trống, hoang phế. Tuy nhiên không chỉ nhằm miêu tả cảnh mà tác giả còn muốn sử dụng sử thay đổi của không gian để nói lên sự thay đổi của cuộc sống con người. Ứng với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh chúng ta hoàn toàn thấy được rõ ràng điều đó. Trước khi lấy chồng nàng cũng là đứa con được cha mẹ, gia đình yêu thương, chở che ấy vậy mà khi xuất giá vừa phải chịu làm lẽ cho người khác lại vừa chịu nhiều đớn đau, khổ nhục. Trong không gian điêu tàn, hoang phế ấy thì con người xuất hiện với một dáng vẻ cô đơn thu hút ánh nhìn qua từ “độc điếu”. NHà thơ như đang tưởng tượng mình đọc “nhất chỉ thư” để có thể thấu hiểu tiếng lòng của nàng Tiểu Thanh. Mà mảnh giấy tàn ấy chính là di cảo, là những bài thơ còn xót lại sau khi người vợ cả đốt tập thơ mà nàng viết. Mối quan hệ giữa “gò hoang” với “mảnh giấy tàn” khiến cho người đời thổn thức bởi gò hoang kia cho ta liên tưởng tới nơi chôn cất của nàng Tiểu Thanh. Cảm giác buồn thương tiếc khiến cho tác giả nhìn cảnh đẹp Tây Hồ, một cảnh đẹp có tiếng của Trung Hoa nhưng lại thấy tiêu điều, hoang phế bởi ông từng nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lòng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang)
Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Đúng là:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Và ở hai câu kết, tác giả đã vận vào bản thân mình, vận sự bạc mệnh của người phụ nữ tài hoa ấy:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Tác giả Nguyễn Du đã kết thúc bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" bằng một câu hỏi thể hiện những ý nghĩa sâu sắc. Một câu hỏi tu từ đầy ngậm ngùi và chua xót khi nghĩ đến cảnh mình sau 300 năm nữa. Tiểu Thanh sau 300 năm vẫn khiến người đọc xót xa, day dứt, nhưng liệu rằng mình có còn được như thế, hay hóa thành cát bụi. Câu hỏi đậm giá trị nhân văn, ông muốn hỏi dò tâm ý của mọi người khi nghĩ đến số phận của những người tài hoa sau một thời gian dài sẽ như thế nào. Từ số kiếp tài hoa bạc mệnh của Tiểu Thanh, ông đã liên tưởng đến cuộc đời nhiều sóng gió của bản thân mình. Câu thơ còn khiến cho người đọc phải nghĩ, phải day dứt và xót xa trăm nghìn lần.
Nguyễn Du luôn hướng ngòi bút của mình đến những người phụ nữ có tài nhưng lại bạc mệnh, dường như tác giả có sự đồng cảm đó bởi vì giống với cảnh ngộ của tác giả. Bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Ông có tình thương bao la với những kiếp người tài hoa, bạc mệnh dù là người Việt Nam hay Trung Quốc. Rồi ông lại tự vận vào mình cái án phong lưu để mà tự đau, tự thương cho mình bơ vơ, không tri âm, tri kỷ trước cõi đời. Trong văn chương thời trung đại, quan niệm vô ngã, phi ngã chi phối dễ gì có nhiều người biết thương mình, thương một cách cực độ như Nguyễn Du. Nguyễn Du luôn sống mãi trong lòng người với tinh thần nhân đạo cao cả, xứng đáng là nhà nhân đạo lớn.
3. Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận về bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" của Nguyễn Du
Bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ với số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh. Nhà thơ đã thấy sự đồng cảm giữa mình với nàng Tiểu Thanh, những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với "Truyện Kiều" thế nhưng ông còn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ông thường khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngoài Kiều ra thì chúng ta còn thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm "Độc Tiểu Thanh kí. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đó ông thể hiện sự day rứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó có chính bản thân ông. Qua đây ta thấy được sự thương cảm xót xa đồng điệu của những con người tài hoa bạc mệnh với nhau. Nguyễn Du quả thật là một nhà văn của người phụ nữ, ông không những có một tác phẩm về cuộc đời nàng Kiều mà ông còn thương cảm với nàng Tiểu Thanh bên Trung Quốc. Tóm lại nhà thơ viết lên bài thơ này một mặc để bày tỏ sự thương tiếc với người tài hoa nhưng bạc mệnh lại vừa thể hiện sự trăn trở về số phận của bản thân mình.
Tham khảo thêm